Tiểu sử

THÁNH ANRÊ NGUYỄN KIM THÔNG

(1790-1855)
Trùm họ dấn thân phục vụ rồi chết vì Chúa

Anrê Nguyễn Kim Thông, còn gọi là Năm Thuông, sinh năm 1790 tại Gò Thị, Xuân Phương, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, trong một gia đình đạo đức, được giáo dục theo tinh thần đạo đức, được giáo dục theo tình Phúc Âm trong khuôn khổ Nho học. Nguyễn Kim Thông lập gia đình, có chín người con, 6 trai, 3 gái. Người con trai thứ 8 là linh mục Giuse Nguyễn Kim Thủ về sau cũng chịu xử chém vì đạo. Con gái út là Anna Nguyễn Thị Nhường, đi tu Dòng Mến Thánh Giá.

Từ lúc còn trẻ, Nguyễn Kim Thông đã nổi tiếng đạo đức và khôn ngoan, nên sớm được tuyển vào hàng chức việc trong giáo xứ, và sau đó được Ðức Giám Mục Cuénot Thể cử làm trùm họ Huyện. Ông Trùm Thông rất được dân làng trọng vọng, tôn ông là ông Cả trong làng, nên gọi là Trùm Cả, Trùm Cả Năm Thuông.

Về mặt xã hội, Nguyễn Kim Thông có công khai phá rừng hoang, trưng khẩn ruộng đất, nên được triều đình ban thưởng thẻ vàng với tước hiệu “Cần Nông”.

Ðối với Giáo Hội, Anrê Nguyễn Kim Thông tận tâm giúp Ðức Cha Cuénot Thể tạo mãi ruộng đấy, xây dựng Tòa Giám Mục, mở chủng viện, tu viện, nhà dục anh và cơ sở nhà chung, đồng thời đảm nhiệm trọng trách cố vấn quản lý tài sản nhà chung để tạo phương tiện điều hành Giáo phận. Ngoài ra, Trùm Cả Năm Thuông còn lo bảo vệ Ðức Cha, các cha cùng các Thầy trong cơn bách bại đạo Chúa. Ông Trùm khéo léo sắp xếp cho các linh mục đi đây đó mở đạo trong vùng mà không gặp khó khăn. Nhà ông Trùm là chỗ tạm trú tốt cho các Cha mỗi khi các ngài có việc về Tòa Giám Mục Ðàng Trong đóng ở Gò Thị. Mọi chi phí ăn uống cho các Cha trong những ngày tạm trú đều do gia đình ông Trùm Cả đài thọ. Anrê Năm Thuông không bao giờ tiếc công tiếc của trong việc mở mang nước Chúa.

Anrê Nguyễn Kim Thông có một đức tin sắt đá, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì danh Chúa cả sáng và vì phần rỗi đồng loại. Ðặc biệt, ông luôn tỏ ra nhân ái với mọi người, nhất là bênh vực người cô thế, giúp đỡ kẻ cơ hàn. Trong trách nhiệm xét xử việc làng, ông Trùm xét đoán theo lẽ công bình, rồi sau đó lấy của nhà gíup đỡ cho người nghèo thua kiện. Ông năng khuyến khích người xung quanh làm lành lánh dữ và răn bảo kẻ có tội sớm ăn năn cải tà quy chánh. Nhưng Ông cũng tỏ ra không kém thẳng thắn khiển trách người ngoan cố, như đã có lần nhắc nhở đứa cháu hung hăng hoang đàng tên Bảy Út, khiến tên này tự ái sinh lòng hiềm thù đặt điều tố cáo với các quan về Ông Trùm Cả. Thế là Anrê Nguyễn Kim Thông bị bắt giải về tỉnh vào năm 1853, năm Tự Ðức thứ 6.

Bị điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: “Trong nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc”. Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ đươc tha về. Ông nhất quyết không tuân.

Quan bảo: “Kín đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội”.

Ông Trùm đáp: “Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá cũng vậy”.

Thế là sau ba tháng bị giam giữ, Anrê Nguyễn Kim Thông nhận bản án chung thẩm từ triều đình Huế gửi vào: Lưu đày biệt xứ vào Ðịnh Tường (Mỹ tho). Trên đường đi đày, tới Gia Ðịnh Ông Trùm ngã bệnh. Có người muốn ra tay cứu Ông. Ông Trùm ngỏ lời cảm ơn lòng tốt của họ và xin hãy để Ông được vâng theo Thánh Ý Chúa. Tới Ðịnh Tường, bệnh tình của Ông Năm Thuông trở nên trầm trọng. Ngày 15-7-1855, sau khi kêu tên cực thánh ba Ðấng “Giêsu, Maria, Giuse”, Anrê Nguyễn Kim Thông yên giấc nghìn thu trong Chúa, chân vẫn còn mang nặng xiềng xích. Ông thọ 65 tuổi.

Anrê Nguyễn Kim Thông được Ðức Giáo Hoàng Piô X phong Chân Phước năm 1909 và Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Hiển Thánh ngày 19-6-1988.

----------------

Cuộc đời thánh Giám mục Cuénot Thể

(1802  - 14/11/1861)
Như một Phaolô ngày xưa.
Cuộc đời thánh Giám mục Cuénot Thể với 32 năm phục vụ Giáo Hội Việt Nam, 26 năm trong chức vụ Giám mục, gắn liền với những trang sử đẹp nhất, giữa một giai đoạn khó khăn nhất thời bách hại. Nhiệt tâm truyền giáo của ngài như ngọn thủy triều dâng tràn đến mọi nơi. Với tài đức khéo léo, ngài đã đào tạo một đội ngũ linh mục xuất sắc và hàng ngàn thày giảng, nữ tu hăng say. Với châm ngôn “Để tín hữu vững tin, phải đào tạo những tông đồ truyền giáo”, nên dù cho bao linh mục, tu sĩ, giáo dân của ngài bị tàn sát, giáo phận Đàng Trong của ngài vẫn phát triển mạnh mẽ, đủ sức tách làm bốn giáo phận. Số  linh mục, tu sĩ, tân tòng gia tăng nhanh mỗi năm, sẽ mãi mãi là bằng chứng của nhiệt tâm và tài tổ chức của ngài.
Stêphanô Théodore Cuénot sinh ngày 08.02.1802 tại Sous Réamont thuộc Bélieu nước Pháp. Lớn lên cậu vào chủng viện Besancon, trung tâm huấn luyện của cha Réceveur, và thụ phong  linh mục ngày 24.09.1825. Tuy thế, hoài bão chính của tân  linh mục là đi truyền giáo. Năm 1828, cha Cuénot xin gia nhập hội Thừa Sai Paris, và năm sau được cử đến Việt Nam. Ngày 31.5.1829, cha đến Kẻ Vĩnh, giáo phận Đàng Ngoài. Ngày 24.7, cha vào Miền Nam.
Mới đầu cha được gửi đến Lái Thiêu để học thêm tiếng Việt, đồng thời dạy các chủng sinh ở đó. Bốn năm dạy ở chủng viện, tuy là thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để cha hiểu nhiều về phong hóa địa phương, gắn bó với các cộng tác viên trong tương lai. Năm 1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo trên toàn quốc, triệt hạ các nhà thờ, tập trung các thừa sai và bắt các tín hữu phải bỏ đạo. Vì mới lần đầu va chạm với bách hại, các tín hữu khi đó chưa giám chứa chấp các vị thừa sai. Đức cha Tabert Từ liền quyết định đưa các vị di tản qua Thái Lan. Cha Thể phụ trách việc di tản 15 chủng sinh. Sau hơn một tháng rưỡi hành trình vất vả, đoàn người đã đến Thái Lan và được vua Thái tiếp đón lồng nhiệt.
Thời gian đó, Thái Lan và Việt Nam đang có chiến tranh, nên vua Thái Lan muốn nhờ các vị thừa sai kêu gọi dân Công Giáo chống lại vua Minh Mạng. Dĩ nhiên là Đức cha Tabert Từ không thể nào chấp nhận, nhài cương quyết từ chối. Điều đó làm Thái Hoàng nổi giận và thay đổi cách cư xử. Nhà vua ra lệnh bắt giam ba  linh mục và các chủng sinh  Việt Nam. May là nhờ tài ăn nói thuyết phục của cha Thể, vua mới nương tay và cho họ đến ẩn náu tại chủng viện Pénang (Mã Lai) năm 1834. Cha nói: “Bằng mọi giá phải lo cho họ. Như tôi (một thừa sai) chết, người ta có thể gửi người khác thay thế chậm lắm là một năm. Một  linh mục, chủng sinh Việt Nam nằm xuống, phải mất hai ba chục năm mới có người thay thế được”.
Cũng năm đó, vì không ủng hộ Thái Lan đánh Việt Nam, Đức cha Tabert Từ lại phải chạy đến Singapour.
Hoa tiêu giữa sóng gió
Tuy sống cách xa nghìn dặm, Đức cha, cha Thể và các  vị thừa sai vẫn hướng tâm hồn về Giáo Hội Việt Nam đang lâm cảnh máu chảy đầu rơi, vừa thương xót vừa thán phục, các ngài tìm cách trở lại miền đất truyền giáo này. Năm 1835, Đức cha Tabert có quyết định mới. Khi thấy trên mảnh đất Lạc Hồng chỉ còn hai thừa sai và 10  linh mục Việt Nam, Đức cha liền đáp tàu sang Pénang, truyền chức Giám mục cho cha Thể, chọn làm phụ tá mình, và cử vị tân Giám mục cấp tốc trở về giáo phận.
Trở lại Việt Nam trong những ngày bách hại khốc liệt, sự hiện diện của Đức cha Thể quả là niềm an ủi lớn lao cho các tín hữu. Đặt trụ sở tại Gò Thị, tỉnh Bình Định, Đức cha thấy mình không thể đi thăm hết các họ đạo được, ngài liền việt thư luân lưu gửi đến khắp nơi để cổ võ tinh thần đạo đức của giáo hữu. Từ nay tất cả các biến cố trong giáo phận: Những cuộc càn quét của quân lính, những chứng nhân bị bắt giam, những cuộc tử đạo, cho đến những thành quả tông đồ, đều được người cha chung giáo phận cảm thông, viết thư khen ngợi, ủy lao hay khích lệ. Nhờ đó, các  linh mục và giáo hữu đều thấy thêm can đảm.
Việc Đức cha bận tâm nhất là số các linh mục phục vụ. Ngoài hai linh mục đã theo ngài về từ Thái Lan, năm 1835, Đức cha  truyền chức cho 10 thày giảng. Năm sau, ngài xin Hội Thừa Sai thêm sáu linh mục. Là người sáng suốt nhìn xa trông rộng, Đức cha cho tái lập hai chủng viện, một hở Huế trao cho cha Candalh Kim và một ở miền Nam trao cho cha Lefèbvre Nghĩa. Đồng thời Đức cha cũng gọi các nữ tu Mến Thánh Giá trước đây đã phải phân tán về gia đình (250 dì) trở lại sống chung và hoạt động trong 18 nhà phước.
Ngày 31.7.1840, Đức cha Tabert Từ qua đời tại Calcutta (Ấn Độ), Đức cha Thể chính thức làm đại diện Tông tòa. Năm sau ngài tổ chức lễ tấn phong cho tân Giám mục Lefèbvre Nghĩa làm phụ tá. Lợi dụng tình hình lắng dịu hơn, ngài tổ chức Công Đồng Gò Thị (1841) gồm ba thừa sai và 13  linh mục Việt trong giáo phận (1). Công Đồng dưới sự điều khiển của Đức cha Thể, đã đưa ra những nguyên tắc sáng suốt để đào tạo một lớp  linh mục bản xứ đông đảo và nhiệt thành. Nếu việc mở chủng viện khó khăn, mỗi thừa sai có trách nhiệm dạy sáu bảy em, rồi gửi qua Pénang học bảy năm. Họ sẽ về Việt Nam thụ phong linh mục và làm việc. Cách tổ chức ấy trong thực tế đã cung cấp cho giáo phận Đàng Trong một số khá đông linh mục thông thái và đạo đức.
Vị chủ chăn nhiều tài năng và sáng kiến.
Dù hoàn cảnh khó khăn, Đức cha vẫn quan tâm đến việc nâng cao kiến thức và nhân đức cho hàng giáo sĩ, mỗi năm ngài gởi cho các  linh mục những bài học hỏi về tín lý, luân lý. Các cha sẽ việt bài nộp trong kỳ tĩnh tâm hàng năm. Sau đó, chính Đức cha đọc, sửa bài và gửi thư nhắn nhủ cho từng linh mục. Đối với giáo hữu, Đức cha chủ trương rằng “Phương pháp tốt nhất để đức tin của các giáo hữu vững vàng là đào tạo họ thành những tông đồ truyền giáo”. Thực vậy, nhờ giải thích cho các khác về giáo lý, các giáo hữu ngày càng xác tín hơn về niềm tin của mình. Hơn nữa, họ tự thấy nghĩa vụ làm gương cho anh em tân tòng về đời sống đạo và tinh thần can đảm giữ vững đức tin.
Đối với những giáo hữu vì sợ hãi đã xuất giáo, đạp lên Thánh Giá, Đức cha sẵn lòng thay mặt Chúa tha thứ. nhưng ngài xin họ nhận một điều kiện là hứa giúp cho một lương dân theo đạo Công Giáo. Bên cạnh đó, hàng năm Đức cha làm thống kê báo tin xứ đạo nào có nhiều tân tòng hơn, khiến các xứ thi đua làm việc tông đồ. Đặc biệt phải nói đến lòng can đảm của các nữ tu Mến Thánh Giá. Các chị chia nhau, cứ hai người một, đi hết các làng mạc, phát thuốc men cho bệnh nhân, và khi có thể, rửa tội cho trẻ em sắp chết. Năm 1835, khi Đức cha mới về Việt Nam, số trẻ em ngoại giáo được rửa tội là 133 em, thì năm 1841 là 1800 em và năm 1843 là 8273 em. Năm 1844, số trẻ em gia đình Công Giáo được rửa tội là 5056 thì số người lớn trở lại và rửa tội là 1007, nghĩa là một phần năm.
Nhiều giáo hữu sẵn sàng bỏ tiền bạc, cong sức nuôi dùm trẻ em những người quá nghèo, chỉ với điều kiện là cho em gia nhập đạo. Lòng bác ái sâu xa ấy quả là bài giảng hùng hồn về sức sống của Giáo Hội. Nhiều người thiện chí, và đôi khi cha mẹ các em cũng xin  trở lại vì những bài giảng sống này.
Một công trình lớn lao khác của Đức cha Thể là công cuộc truyền giáo cho các dân tộc thiểu số miền Thượng du, đặc biệt là dân tộc Bahnar. Chính Đức cha cử nhiều đợt người theo dõi, khích lệ và đưa ra những chỉ đạo thích hợp để anh em Thượng nhận Ánh Sáng Tin Mừng.
Những thành công lớn lao của Đức cha đã được Tòa Thánh công nhận năm 1844 khi phân chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận Đông (Quy Nhơn) và Tây (Sài Gòn). Tiếp theo đến năm 1850, lại chia làm bốn là Nam Vang, Sài Gòn, Bắc (Huế) và Quy Nhơn. Từ đây Đức cha  Thể chỉ coi sóc giáo phận Đông Đàng Trong, nhưng lại ở trong tình hình bách hại mới gay gắt hơn nhiều.
Lòng kính mến Đức Mẹ.
Trong 10 năm liền, nhờ sự che chở của các tín hữu và các nữ tu Mến Thánh Giá, Đức cha và các linh mục thoát khỏi cuộc truy lùng. Thế nhưng các ngài phải thay đổi chỗ ở liên tục, nhiều đêm ngủ ngoài trời “đêm sao”, có lúc phải vào rừng sâu hay đầm lầy, chịu đói chịu khát, chịu khí hậu thất thường và nhiều lần suýt chết trong khi thăm viếng bệnh nhân hay giải tội cho người hấp hối. Thế mà trong thời gian này, Đức cha duy trì thường xuyên mối liên lạc với tòa Thánh. Đặc biệt khi được hỏi về tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, ngài đã trao đổi với các  linh mục trong giáo phận, rồi gửi thư bày tỏ lòng kính mến Đức Maria của dân Việt cho Tòa Thánh. Cuối thư Đức cha viết: “Xin Đức Thánh Cha cho được hiệp thông trong lời cầu nguyện cùng với tất cả các Giám mục khác trong ngày Đức Thánh Cha long trọng công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Tù tội và rao giảng Tin Mừng
Năm 1861, chiếu chỉ “phân sáp” của vua Tự Đức làm Giáo Hội Việt Nam một phen điêu đứng. Đức cha Thể đã khuyên các thừa sai trong giáo phận đi tản vào Sài Gòn, nhưng chính ngài tình nguyện ở lại, ngài đưa ra một phương châm bất hủ: “Dù chỉ còn một thừa sai chẳng làm được gì ngoài việc đọc kinh thần vụ, thì nguyên việc hiện diện của vị đó đủ để nâng đỡ niềm tin và sinh hoạt của tín hữu rồi”.
Từ tháng 10, Đức cha phải bỏ Gò Thị trốn từ nhà này sang nhà khác. Ngày 24.10.1861, ngài đang ẩn ở nhà bà Madalena Huỳnh Thị Lựu thì quân lính bao vây nhà bà.
Đức cha và hai chú giúp lễ kịp trốn xuống hầm, nhưng vì vừa dâng lễ xong chưa kịp cất giấu đồ lễ. Vì chứng cớ ấy mà quân lính thề phá nhà, nếu không tìm thấy đạo trưởng Tây Dương. Mọi người trong nhà đều bị tra tấn, bà Lựu bị đánh đòn 17 roi. Sau hai ngày và một đêm ở dưới hầm, Đức cha và hai chú giúp lễ khát khô cả cổ. Vả lại vì quân lính chẳng bỏ đi, nếu chưa bắt được Đức cha, nên ngài tự ra nộp mình. Vừa thấy ngài, quân lính chồm tới trói tay chân ngài lại như một con thú. Nhưng viên chỉ huy nhân đạo hơn, cho cởi trói và mời ngài ngồi chiếu nói truyện với ông ta.
Hôm sau, Đức cha bị nhốt trong cũi đưa về tỉnh. Hai chú giúp lễ, bà Lựu và hai người lân cận cũng bị mang gông giải đi (sau này tất cả cùng bị xử tử tháng 12). Bà Lựu vừa cho con bú vừa ra pháp trường, rồi hôn con lần cuối trao lại cho bà ngoại. Tháng 10 năm đó, miền Trung bị lụt, nước dâng lên đến lưng, nên ngồi trong cũi chật chội, Đức cha cũng bị ngập nước. Do đó, khi đến nhà giam thì Đức cha lâm trọng bệnh. Chứng kiết lị làm sức khỏe ngài càng đuối dần, vì thế ngài chỉ phải ra tòa một lần. Quan hỏi:
- Tại sao ông sang nước tôi?
- Thưa, để giảng đạo Thiên Chúa.
- Ông ở đây  bao lâu rồi?
- Ba mươi bốn năm.
- Ông đã ở những đâu?
- Thưa, trước hết là Bình Định rồi Phú Yên, Bình Thuận và lại trở về Bình Định.
- Ông biết gì về chiến tranh không?
- Thưa, không biết gì cả. Tôi đến đây chỉ để giảng đạo, khi nơi này khi nơi khác thế thôi. Quan hành hạ thế nào tôi cũng đành chịu, chứ tin tức chiến tranh tôi hoàn toàn không biết gì cả.
Trở về với chiếc cũi của mình, cơn bệnh khắc nghiệt chỉ trong vòng ba tuần lễ đã làm Đức cha kiệt sức và thở hơi cuối cùng ngày 14.11.1861, kết thúc 32 năm truyền giáo không một ngày bình an.
Hôm sau, ngày Đức cha qua đời, bản án trảm quyết từ Huế mới đến Bình Định. Thấy ngài đã từ trần, quan Trấn thủ Bình Định không cho chém nữa, truyền đem đi chôn, những tín hữu đang bị tù xin phép mua cho Đức cha một áo quan xứng đáng, nhưng Trấn thủ không chấp thuận. Nhưng sau đó, triều đình lại gửi ra một bản án mới ghi thế này: “Tây dương đạo trưởng Thể đã lấn lút trong nước ta 40 năm nay. Y đã giảng đạo và lừa dối dân chúng. Bị bắt và tra hỏi, y đã thú nhận mọi tội lỗi. Lẽ ra phải đem chém đầu y bêu lên giữa chợ, nhưng vì y đã chết trong tù, ta truyền phải quăng xác y xuống sông”.
Chiếu theo bản án ấy, quan Trấn thủ cho đào mồ Đức cha lên để liệng thi hài Đức cha xuống sông.
Mặc dù Đức cha Cuénot Thể không đổ máu vì đức tin, nhưng căn cứ vào bản án và muôn ngàn nỗi truân chuyên ngài đã chịu vì đạo, Giáo Hội tôn kính Đức cha với tước hiệu tử đạo.
Ngày 02.05.1909, Đức Piô X nêu danh Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể đứng đầu danh sách 20 vị tử đạo tại Việt Nam được suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

----------------

117 Thánh Tử Đạo Việt Nam

Danh Sách 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II Tuyên Phong Thánh tại Rôma ngày 19/06/1988:

1. ANRÊ TRẦN AN DŨNG (LẠC), Sinh năm 1795 tại Bắc Ninh, Linh mục, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/12.

2. ANRÊ NGUYỄN KIM THÔNG (NĂM THUÔNG), Sinh năm 1790 tại Gò Thị, Bình Định, Thầy giảng, chết rũ tù ngày 15/07/1855 tại Mỹ Tho dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 15/07.

3. ANRÊ TRẦN VĂN TRÔNG, Sinh năm 1808 tại Kim Long, Huế, Binh Sĩ, bị xử trảm ngày 28/11/1835 tại An Hòa dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/11.

4. ANRÊ TƯỜNG, Sinh tại Ngọc Cục, Xuân Trường, Giáo dân, bị xử trảm ngày 16/06/1862 tại làng Cốc dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.

5. ANTÔN NGUYỄN ĐÍCH, Sinh tại Chi Long, Nam Định, Giáo dân, bị xử trảm ngày 12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/08.

6. ANTÔN NGUYỄN HỮU QUỲNH (NĂM), Sinh năm 1768 tại Mỹ Hương, Quảng Bình, Y sĩ, bị xử giảo ngày 10/07/1840 tại Đồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, đước phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 10/07.

7. AUGUSTINÔ SCHOEFFLER (ĐÔNG), Sinh năm 1822 tại Mittelbonn, Nancy, Pháp, Linh Mục Thừa sai người Pháp, Hội Thừa Sai Paris, bị xử trảm ngày 1/05/1851 tại Sơn Tây dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Lêô XIII, lễ kính vào ngày 1/05.

8. AUGUSTINÔ PHAN VIẾT HUY, Sinh năm 1795 tại Hạ Linh, Bùi Chu, Binh Sĩ, Giáo dân dòng ba, bị xử lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/06.

9. AUGUSTINÔ NGUYỄN VĂN MỚI, Sinh năm 1806 tại Phù Trang, Nam Định, Giáo dân, dòng ba Đa Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.

10. BÊNAĐÔ VŨ VĂN DUỆ, Sinh năm 1755 tại Quần Anh, Nam Định, Linh mục triều, bị xử trảm ngày 1/08/1838 tại Ba Tòa dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 1/08.

11. ĐA MINH CẨM, Sinh tại Cẩm Chương, Bắc Ninh, Linh mục, Dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 11/03/1859 tại Hưng Yên dưới thời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 11/03.

12. ĐAMINH ĐINH ĐẠT, Sinh năm 1803 tại Phú Nhai, Bùi Chu, Binh Sĩ, Giáo dân dòng ba, bị xử giảo ngày 18/07/1839 tại Nam Định dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/07.

13. ĐAMINH NGUYỄN VĂN HẠNH (DIỆU), Sinh năm 1772 tại Năng A, Nghệ An, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 1/08/1838 tại Ba Tòa dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 1/08.

14. ĐAMINH HUYỆN, Sinh tại Đông Thành, Thái Bìnb, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 5/06/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 5/06.

15. ĐAMINH PHẠM VIẾT KHẢM (Án Trọng), Sinh tại Quần Cống, Nam Định, Quan Án, Giáo dân Dòng Ba Đa Minh, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 13/01.

16. ĐAMINH NGUYỄN ĐỨC MẠO, Sinh tại Phú Yên, Ngọc Cực, Giáo dân, bị xử trảm ngày 16/06/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.

17. ĐAMINH HÀ TRỌNG MẦU, Sinh tại Phú Nhai, Bùi Chu, Linh mục Dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 5/11/1858 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 5/11.

18. ĐAMINH NGUYÊN, Sinh tại Ngọc Cục, Nam Định, Giáo dân, bị xử trảm ngày 16/06/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.

19. ĐAMINH NHI, Sinh tại Ngọc Cục, Nam Định, Giáo dân, bị xử trảm ngày 16/06/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.

20. ĐAMINH NINH, Sinh năm 1835 tại Trung Linh, Nam Định, Giáo dân, bị xử trảm ngày 2/06/1862 tại An Triêm dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 2/06.

21. ĐAMINH TOÁI, Sinh tại Đông Thành, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 5/06/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 5/06.

22. ĐAMINH TRẠCH (ĐOÀI), Sinh năm 1792 tại Ngoại Bồi, Nam Định, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 18/09/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/09.

23. ĐAMINH VŨ ĐÌNH TƯỚC, Sinh năm 1775 tại Trung Lao, Bùi Chu, Linh mục dòng Đa Minh, bị tra tấn đến chết ngày 2/04/1839 tại Nam Định dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 2/04.

24. ĐAMINH BÙI VĂN ÚY, Sinh năm 1801 tai Tiên Môn, Thái Bình, Thầy giảng dòng ba Đa Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.

25. ĐAMINH NGUYỄN VĂN XUYÊN (ĐOÀN), Sinh năm 1786 tại Hưng Lập, Nam Định, Linh mục dòng Đa Minh. , bị xử trảm ngày 26/11/1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 26/11.

26. ĐỨC CHA ĐA MINH XUÂN (Dominicus Henarès), Sinh năm 1765 tại Baena, Cordova, Tây Ban Nha, dòng Đa Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, phụ tá địa phận Đông Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 25/06/1838 tại Nam Định dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngàỵ 25/06.

27. ĐỨC CHA GIÊRÔNIMÔ LIÊM (Hieronymus Hermosilla), Sinh năm 1800 tại S. Domingo de la Calzadar, Tây Ban Nha, dòng Đa Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Đông Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861 tại Hải Dương dưới thời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.

28. ĐỨC CHA GIUSE AN (Maria Diaz Sanjurjo), Sinh năm 1818 tại Santa Eulalia de Suegos, Tây Ban Nha, dòng Đa Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, bị xử trảm ngày 20/07/1857 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1900 do Đức Piô XII, lễ kính ngày 20/07.

29. ĐỨC CHA CLÊMENTÊ INHAXIÔ HY (Ignatius delgado), Sinh năm 1761 tại Villa Felice, Tây Ban Nha, dòng Đa Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Đông Đàng Ngoài, bị chết rũ tù ngày 12/07/1838 (21/6/1838 (âm lịch) tại Nam Định dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/07.

30. ĐỨC CHA MELCHOR XUYÊN (Garcia Sampedro), Sinh năm 18211 tại Cortes Asturias, Tây Ban Nha, dòng Đa Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, bị xử lăng trì ngày 28/07/1858 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951, do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 28/07.

31. ĐỨC CHA PHÊRÔ CAO (Pierre Rose Dumoulin Borie), Sinh năm 1808 tại Beynat, Tulle, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Tây Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 24/11/1838 tại Đồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.

32. ĐỨC CHA THỂ (Etienne Théodore Cuénot), Sinh năm 1802 tại Belieu, Besancon, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Đông Đàng Trong, chết rũ tù ngày 14/11/1861 tại Bình Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kínhvào ngày 14/11.

33. ĐỨC CHA VINH (Berrio Ochoa), Sinh năm 1827 tại Elorrio (Vizcaya), Tây Ban Nha, dòng Đa Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Đông Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861 tại Hải Dương dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.

34. EMMANUEL LÊ VĂN PHỤNG, Sinh năm 1796 tại Đầu Nước, Cù Lao Giêng, Giáo dân, Trùm Họ, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Đốc dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 31/07.

35. EMMANUEL NGUYỄN VĂN TRIỆU, Sinh năm 1756 tại Thợ Đức, Phú Xuân, Huế, Linh mục, bị xử trảm ngày 17/09/1798 tại Bãi Dâu dưới đời vua Cảnh Thịnh, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 17/09.

36. GIACÔBÊ ĐỖ MAI NĂM, Sinh năm 1781 tại Đông Biên, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/08.

37. GIOAN BAOTIXITA CỎN, Sinh năm 1805 tại Kẻ Bàng, Nam Định, Giáo dân, Lý Trưởng, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dướiđời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.

38. GIOAN BAOTIXITA ĐINH VĂN THÀNH, Sinh năm 1796 tại Nộn Khê, Ninh Bình, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/04.

39. GIOAN ĐẠT, Sinh năm 1765 tại Đồng Chuối, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 28/10/1798 tại Chợ Rạ dưới đời vua Cảnh Thịnh, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/10.

40. GIOAN ĐOÀN TRỊNH HOAN, Sinh năm 1798 tại Kim Long, Thừa Thiên, Linh mục, bị xử trảm ngày 26/05/1861 tại Đồng Hới dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 26/05.

41. GIOAN HƯƠNG (Jean Louis Bonnard), Sinh năm 1824 tại Saint Christo en Jarez, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/05/1852 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 1/05.

42. GIOAN TÂN (Jean Charles Cornay), Sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Đàng Ngoài, bị xử lăng trì ngày 20/09/1837 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 20/05.

43. GIOAN VEN (Jean Théophane Vénard), Sinh năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Poitiersm, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 2/02/1861 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 2/02.

44. GIUSE HOÀNG LƯƠNG CẢNH, Sinh năm 1763 tại Làng Ván, Bắc Giang, Giáo dân dòng ba Đa Minh, Trùm Họ, Y Sĩ, xử trảm ngày 5/09/1838 tại Bắc Ninh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 5/09.

45. GIUSE DU (Joseph Marchand), Sinh năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Đàng Ngoài, bị xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Đúc dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 30/11.

46. GIUSE ĐỖ QUANG HIỂN, Sinh năm 1775 tại Quần Anh, Nam Định, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 9/05/1840 tại Nam Định dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 9/05.

47. GIUSE HIỀN (Joseph Fernandez), Sinh năm 1775 tại Ventosa de la Cueva, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Đa Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Đông Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 24/07/1838 tại Nam Định dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/07.

48. GIUSE NGUYỄN DUY KHANG, Sinh năm 1832 tại Trà Vi, Nam Định, Thầy giảng dòng ba Đa Minh, bị xử trảm ngày 6/12/1861 tại Hải Dương dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 6/12.

49. GIUSE NGUYỄN VĂN LỰU, Sinh năm 1790 tại Cái Nhum, Vĩnh Long,Trùm họ, chết rũ tù ngày 2/05/1854 tại Vĩnh Long dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 2/05.

50. GIUSE NGUYỄN ĐÌNH NGHI, Sinh năm 1771 tại Kẻ Với, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.

51. GIUSE PHẠM TRỌNG TẢ (CAI), Sinh năm 1796 tại Quần Cống, Nam Định, Giáo dân, Cai Tổng, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 27/05/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 13/01.

52. GIUSE LÊ ĐĂNG THỊ, Sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị, Giáo dân, Cai Đội, bị xử giảo ngày 24/10/1860 tại An Hòa dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 24/10.

53. GIUSE TUÂN, Sinh năm 1821 tại Trần Xá, Hưng Yên, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 30/04/1861 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 30/04.

54. GIUSE TRẦN VĂN TUẤN, Sinh năm 1825 tại Nam Điền, Nam Định, Giáo dân, bị xử trảm ngày 7/01/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 7/01.

55. GIUSE TÚC, Sinh năm 1852 tại Hoàng Xá, Bắc Ninh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 1/06/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 1/06.

56. GIUSE NGUYỄN ĐÌNH UYỂN, Sinh năm 1775 tại Ninh Cường, Nam Định, Thầy giảng, dòng ba Đa Minh, chết rũ tù ngày 4/7/1838 tại Hưng Yên dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 4/07.

57. GIUSE ĐẶNG ĐÌNH VIÊN, Sinh năm 1787 tại Tiên Chu, Hưng Yên, Linh mục triều, bị xử trảm ngày 21/8/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/08.

58. HENRICÔ GIA (Henricus Castaneda), Sinh năm 1743 tại Javita, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Đa Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Đông Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 7/11/1773 tại Đồng Mơ dưới đời Chúa Trịnh Sâm, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 7/11.

59. INÊ LÊ THỊ THÀNH (ĐÊ), Sinh năm 1781 tại Bái Đền, Thanh Hóa, Giáo dân, chết rũ tù ngày 12/07/1841 tại Nam Định dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 12/07.

60. LÔRENSÔ NGUYỄN VĂN HƯỞNG, Sinh năm 1802 tại Kẻ Sài, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 13/02/1856 tại Ninh Bình dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 13/02.

61. LÔRENSÔ NGÔN, Sinh tại Lục Thủy, Nam Định, Giáo dân, bị xử trảm ngày 22/05/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 22/05.

62. LUCA VŨ BÁ LOAN, Sinh năm 1756 tại Trại Bút, Phú Đa, Linh mục, bị xử trảm ngày 5/06/1840 Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 5/06.

63. LUCA PHẠM VIẾT THÌN (CAI), Sinh năm 1819 tại Quần Cống, Nam Định, Giáo dân, Cai Tổng, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 13/01.

64. MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN ĐẮC (PHƯỠNG), Sinh năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình, Trùm họ, bị xử trảm ngày 26/05/1861 tại Đồng Hới dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 26/05.

65. MATTHÊÔ ĐẬU (Matthaeus Alonso Leciniana), Sinh năm 1702 tại Nava del Rey, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Đa Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Đông Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 22/01/1745 tại Thăng Long dưới đời chúa trịnh Doanh, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 22/01.

66. MATTHÊÔ LÊ VĂN GẪM, Sinh năm 1813 tai Gò Công, Biên Hòa, Giáo dân, Thương gia, bị xử trảm ngày 11/05/1847 tại Chợ Đũi dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 11/05.

67. MATTINÔ TẠ ĐỨC THỊNH, Sinh năm 1760 tại Kẻ Sặt, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.

68. MATTINÔ THỌ, Sinh năm 1787 tại Kẻ Bàng, Nam Định, Giáo dân, Trùm họ, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.

69. MICAE HỒ ĐÌNH HY, Sinh năm 1808 tại Như Lâm, Thừa Thiên, Giáo dân, Quan Thái Bộc, bị xử trảm ngày 22/05/1857 tại An Hòa dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 22/05.

70. MICAE NGUYỄN HUY MỸ, Sinh năm 1804 tại Kẻ Vĩnh, Hà Nội, Giáo dân, Lý Trưởng, bị xử trảm ngày 12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do ĐứcLêô XIII, lễ kính vào ngày 12/08.

71. NICÔLA BÙI ĐỨC THỂ, Sinh năm 1792 tại Kiên Trung, Bùi Chu, Giáo dân, Binh sĩ, bị lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Leô XIII, lễ kính vào ngày 12/06.

72. PHANXICÔ ĐỖ VĂN CHIỂU, Sinh năm 1797 tại Trung Lễ, Liên Thủy, Nam Định, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 25/06/1838 tại Nam Định dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 25/06.

73. PHANXICÔ KÍNH (Francois Isidore Gagelin), Sinh năm 1799 tại Montperreux, Besancon, Pháp, Linh mục Thừa sai Paris, địa phận Đàng Trong, bị xử giảo ngày 17/10/1833 tại Bãi Dâu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 17/10.

74. PHANXICÔ PHAN (Francois Jaccard), Sinh năm 1799 tại Onnion, Annecy, Pháp, Linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Đàng Trong, bị xử giảo ngày 21/09/1838 tại Nhan Biều dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/09.

75. PHANXICÔ TẾ (Francois Gil de Federich), Sinh năm 1702 tại Tortosa, Catalunha, Tây Ban Nha, Linh mục dòng Đa Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Đông Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 22/01/1745 tại Thăng Long dưới đời chúa Trịnh Doanh, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 22/01.

76. PHANXICÔ TRẦN VĂN TRUNG, Sinh năm 1825 tại Phan Xã, Quảng Trị, Giáo dân, Cai đội, bị xử trảm ngày 6/10/1858 tại An Hòa dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 6/10.

77. PHANXICÔ XAVIÊ CẦN, Sinh năm 1803 tại Sơn Miêng, Hà Đông, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 20/11/1837 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 20/11.

78. PHANXICÔ XAVIÊ HÀ TRỌNG MẬU, Sinh năm 1794 tại Kẻ Điều, Thầy giảng, dòng ba Đa Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cô Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.

79. PHAOLÔ TỐNG VIẾT BƯỜNG, Sinh tại Phủ Cam, Huế, Giáo dân, Quan Thị Vệ, bị xử trảm ngày 23/10/1833 tại Thợ Đức dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 23/10.

80. PHAOLÔ DƯƠNG (ĐỔNG), Sinh năm 1792 tại Vực Đường, Hưng Yên, Giáo dân, Trùm họ, bị xử trảm ngày 3/06/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 3/06.

81. PHAOLÔ HẠNH, Sinh năm 1826 tại Chợ Quán, Giáo dân, bị xử trảm ngày 28/05/1859 tại Nam Việt dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 28/05.

82. PHAOLÔ PHẠM KHẮC KHOAN, Sinh năm 1771 tại Duyên Mậu, Ninh Bình, Linh mục, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/04.

83. PHAOLÔ LÊ VĂN LỘC, Sinh năm 1830 tại An Nhơn, Gia Định, Linh mục, bị xử trảm ngày 13/02/1859 tại Gia Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 13/02.

84. PHAOLÔ NGUYỄN VĂN MỸ, Sinh năm 1798 tại Kẻ Non, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18/12/1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/12.

85. PHAOLÔ NGUYỄN NGÂN, Sinh năm 1771 tại Kẻ Bền, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.

86. PHAOLÔ LÊ BẢO TỊNH, Sinh năm 1793 tại Trịnh Hà, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 6/04/1857 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 6/04.

87. PHÊRÔ BẮC (Pierre Francois Neron), Sinh năm 1818 tại Bornay, Saint-Claude, Pháp, Linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 3/11/1860 tại Sơn Tây dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính av2o ngày 3/11.

88. PHÊRÔ BÌNH (Petrus Almato), Sinh năm 1830 tại San Feliz Saserra, Tây Ban Nha, Linh mục dòng Đa Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Đông Đàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861 tại Hải Dương dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.

89. PHÊRÔ DŨNG, Sinh tại Đông Hào, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước nag2y 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 6/06.

90. PHÊRÔ ĐA, Sinh tại Ngọc Cục, Xuân Trường, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 17/06/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 17/06.

91. PHÊRÔ NGUYỄN VĂN ĐƯỜNG, Sinh năm 1808 tại Kẻ Sở, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18/12/1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/12.

92. PHÊRÔ NGUYỄN VĂN HIẾU, Sinh năm 1783 tại Đồng Chuối, Ninh Bình, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/04.

93. PHÊRÔ PHẠM KHANH, Sinh năm 1780 tại Hòa Duệ, Nghệ An, Linh mục, bị xử trảm ngày 12/07/1842 tại Hà Tĩnh dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 12/07.

94. PHÊRÔ VÕ ĐĂNG KHOA, Sinh năm 1790 tại Thượng Hải, Nghệ An, Linh mục, bị xử giảo ngày 24/11/1838 tại Đồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.

95. PHÊRÔ NGUYỄN VĂN LỰU, Sinh năm 1812 tại Gò Vấp, Gia Định, Linh mục, bị xử trảm ngày 7/04/1861 tại Mỹ Tho dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 7/04.

96. PHÊRÔ ĐOÀN CÔNG QUÝ, Sinh năm 1826 tại Búng, Gia Định, Linh mục, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Đốc dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909, lễ kính vào ngày 31/07.

97. PHÊRÔ THUẦN, Sinh tại Đông Phú, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 6/06.

98. PHÊRÔ PHẠM VĂN THI, Sinh năm 1763 tại Kẻ Sở, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/12.

99. PHÊRÔ VŨ VĂN TRUẬT, Sinh năm 1816 tại Kẻ Thiếc, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18/12/1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/12.

100. PHÊRÔ NGUYỄN BÁ TUẦN, Sinh năm 1766 tại Ngọc Đồng, Hưng Yên, Linh mục triều, bị chết rũ tù ngày 15/07/1838 tại Nam Định dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 15/07.

101. PHÊRÔ LÊ TÙY, Sinh năm 1773 tại Bằng Sở, Hà Đông, Linh mục, bị xử trảm ngày 11/10/1833 tại Quan Ban dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 11/10.

102. PHÊRÔ NGUYỄN KHẮC TỰ, Sinh năm 1811 tại tại Ninh Bình, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 10/07/1840 tại Đồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 10/07.

103. PHÊRÔ GUYỄN VĂN TỰ, Sinh năm 1796 tại Ninh Cường, Bùi Chu, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 5/09/1838 tại Bắc Ninh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 5/09.

104. PHÊRÔ ĐOÀN VĂN VÂN, Sinh năm 1780 tại Kẻ Bói, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 25/05/1857 tại Sơn Tây dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 25/05.

105. PHILIPPHÊ PHAN VĂN MINH, Sinh năm 1815 tại Cái Mơn, Vĩnh Long, Linh mục, bị xử trảm ngày 3/07/1853 tại Đình Khao dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 3/07.

106. SIMON PHAN ĐẮC HÒA, Sinh năm 1787 tại Mai Vĩnh, Thừa Thiên, Giáo dân, Y Sĩ, bị xử trảm ngày 12/12/1840 tại An Hòa dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/12.

107. STÊPHANÔ NGUYỄN VĂN VINH, Sinh năm 1814 tại Phù Trang, Nam Định, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 25/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.

108. TÔMA ĐINH VIẾT DỤ, Sinh năm 1783 tại Phú Nhai, Nam Định, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 26/11/1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 26/11.

109. TÔMA NGUYỄN VĂN ĐỆ, Sinh năm 1810 tại Bồ Trang, Nam Định, Giáo dân dòng ba Đa Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.

110. TÔMA KHUÔNG, Sinh năm 1780 tại Nam Hào, Hưng Yên, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 30/01/1860 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 30/01.

111. TÔMA TRẦN VĂN THIỆN, Sinh năm 1820 tại Trung Quán, Quảng Bình, Chủng sinh, bị xử giảo ngày 21/09/1838 tại Nhan Biều dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/09.

112. TÔMA TOÁN, Sinh năm 1767 tại Cần Phan, Nam Định, Thầy giảng, dòng ba Đa Minh, bị chết rũ tù ngày 27/07/1840 tại Nam Định dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 27/06.

113. VINCENTÊ DƯƠNG, Sinh tại Doãn Trung, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại Nam Định dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 6/06.

114. VINCENTÊ NGUYỄN THẾ ĐIỂM, Sinh năm 1761 tại Ân Đô, Quảng Trị, Linh mục, bị xử giảo ngày 24/11/1838 tại Đồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.

115. VINCENTÊ LÊ QUANG LIÊM, Sinh năm 1732 tại Trà Lũ, Bùi Chu, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 7/11/1773 tại Đồng Mơ dưới đời chúa Trịnh Sâm, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Đức Piô X, lễ kính vào ngày 7/11.

116. VINCENTÊ TƯỜNG, Sinh tại Phú Yên, Giáo dân, bị xử ngày 16/6/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua Tự Đức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Đức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.

117. VINCENTÊ ĐỖ YẾN, Sinh năm 1764 tại Trà Lũ, Phú Nhai, Linh mục dòng Đa Minh, bị xử trảm ngày 30/06/1838 tại Hải Dương dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 30/06